Tiềm năng khoáng sản
Tỉnh Thái Bình có các khoáng sản: Khí đốt, than nâu, titan (ilmenit), sét gốm, sét gạch ngói, nước khoáng nóng, kết quả nghiên cứu cụ thể như sau:
Mỏ khí đốt
Khu mỏ khí đốt Tiền Hải thuộc địa phận huyện Tiền Hải. Đây là mỏ khí đầu tiên đã được khai thác ở Việt Nam. Mỏ khí đốt Tiền Hải là mỏ khí nhỏ, địa tầng, áp suất vỉa trung bình, cấu trúc địa chất phức tạp. Kết quả nghiên cứu tại các giếng khoan thăm dò và khai thác khí cho thấy: Mỏ khí đốt Tiền Hải có 13 vỉa khí có giá trị công nghiệp, nằm trong phụ hệ tầng Tiên Hưng dưới (N31th1) và giữa (N31th2). Các thân khí của mỏ Tiền Hải hầu hết có dạng vòm, dạng màn chắn thạch học, dạng hỗn hợp(vòm + màn chắn thạch học). Vỉa khí sâu nhất nằm cách mặt đất 1178m, vỉa nông nhất cách mặt đất 468m. Công ty khai thác Thái Bình đã thực hiện khoan 12 giếng khoan thăm dò và khai thác khí. Mỏ bắt đầu được khai thác từ tháng 7/1981. Khí của mỏ là khí cháy cacbuahydro không có thành phần khí hại như H2S, không có heeli, hàm lượng Nito cao, có vỉa khí chứa Condensat (khí nặng), chứa khí khô hoàn toàn. Mỏ khí đốt Tiền Hải được khai thác phục vụ cho Khu công nghiệp Tiền Hải gồm 16 doanh nghiệp (sản xuất xi măng trắng, gạch ốp lát, gạch men, sứ mỹ nghệ xuất khẩu, thủy tinh..)
Than nâu
Điểm than nâu dưới lòng đất các huyện Tiền Hải và Kiến Xương, diện phân bố than được kẹp bởi 2 đứt gãy sau: Sông Chảy và Vĩnh Ninh kéo dài theo hướng tây bắc đông nam (đứt gãy Vĩnh Ninh nằm kẹp giữa đứt gãy sông Chảy và sông Lô). Diện tích chứa than là hố sụt địa hào neogen dài 70km, rộng 7-10km (trung bình là 8km). Các vỉa thấu kính than nâu nằm trong hệ tầng Tiên Hưng (thuộc đủ ba hệ tầng dưới, giữa, trên, nằm ở độ sâu 500-1200 m. Khu vực chứa than là nếp lồi thoải có phương thức kéo dài theo hướng tây bắc – đông nam cách tây nam dốc 5º-10º, cánh Đông Bắc dốc 30º-32º. Than có cấu tạo dạng lớp, vỉa, thấu kính không liên tục. Số vỉa than có khoảng 50-58 vỉa, chiều dày vỉa than từ 1m (Tiền Hải) đến 5m (Kiến Xương). Than có chất lượng tốt, màu nâu đen, ánh nhựa, rắn chắc, cấu tạo dạng khối, nghèo tro, nghèo lưu huỳnh, nhiệt lượng tương đối cao, khả năng bốc nóng bốc cháy khó. Đây là loại than nâu lửa dài, nhãn hiệu b2-b3, dùng trong công nghệ hóa học, công nghệ xi măng và làm phối liệu trong luyện cốc. Tài nguyên dự báo cấp p2 là 47 triệu tấn. Điểm quặng có triển vọng, tuy vậy than phân bố ở quá sâu nên điều kiện khai thác khó khăn.
Titan(ilmenit) sa khoáng ven biển
Sa khoáng ven biển đều có tuổi Hacocen có các nguồn khác nhau.
Cửa sông Trà Lý, cửa sông Hồng: Độ sâu lớp đất từ 1-1,5m cát màu xá, hạt nhỏ, phần trên có các ititan sa khoáng hàm lượng nghèo (từ 600-3580/cm3). Nguồn gốc thành tạo là song - biển – đầm lầy.
Bờ biển và đồng bằng ven biển từ cửa sông Thái Bình đến sông Hồng: Thành phần là các hạt nhỏ, hạt vừa, sa khoáng màu xám nâu, xám vàng. Titan sa khoáng hàm lượng nghèo từ (vài trăm g/m3 đến 5.000g/cm3). Nguồn gốc thành tạo là tích tụ biển.
Cồn Thái Ninh (cửa sông Trà Ly): Từ 0-0,5m cát hạt nhỏ, xám nâu, xám vàng, chứa titan sa khoáng hàm lượng nghèo từ (600-1000g/m3); từ 0,5 -1,3m cát màu xám đen, xám nâu hạt nhỏ phân lớp ngang, chứa titan sa khoáng hàm lượng cao (19-20kg/m3) từ 1,3m trở xuống cát màu xám vàng, hạt nhỏ đến trung bình chứa titan sa khoáng hàm lượng nghèo. Nguồn gốc tành tạo là biển - biển gió.
Sét gốm
Đến nay, Thái Bình mới tìm thấy 1 điểm sét gốm Cộng Hòa. Điểm quặng thuộc địa phận 2 xã Hòa Tiến và Canh Tân huyện Hưng Hà. Trung tâm điểm sét gốm Cộng Hòa cách huyện lỵ Hưng Hà 7km về phía tây bắc. Điểm quặng được Thủy lợi Thái Bình phát hiện năm 1992. Sét gốm Cộng Hòa thuộc hệ tầng Hải Hưng trên, nguồn gốc biển. Thân sét gốm dài 4900m, rộng 50-1650m (trung bình 730), dày 0,8-1,2m (trung bình 1m). Mặt cắt khu vực điểm quặng như sau:
0-0,3m lớp đất trồng
0,3-0,5m sét bột, bột sét màu xám nâu, xám vàng. Lớp này sử dụng sản xuất gạch.
0,5-1,7m sét màu trắng, xám trắng, phớt vàng, hạt mịn, ngấm nước dẻo, dễ tạo hình, sét xốp nhẹ. Đây là lớp sản xuất sét gốm
1,7-2,8m sét màu xám xanh, hạt mịn ngấm nước dẻo.
2,8-4,0m cát bột, bột cát sét, màu xám, xám đen, độ dẻo kém.
Mẫu chế thử loại sét gốm Cộng Hòa cho kết luận: Có thể dùng làm đồ gốm, đồ sành không tráng men nhu chum vại với các kích cỡ khác nhau không cần phối liệu có chất lượng cao. Dùng 50% sét Cộng Hòa trộn với 50% sét kaolin, sản xuất được loại bình hoa da lươn có chất lượng tốt.
Tài nguyên dự báo cấp p2 là 9,3 triệu tấn. Cần mở rộng diện tích tìm kiếm thêm các thân quặng tương tự ở phụ hệ tầng Hải Hưng nguồn gốc biển.
Sét gạch ngói
Sét gạch ngói Kim Trung: Điểm quặng thuộc xã Kim Trung huyện Hưng Hà, cách thị trấn huyện khoảng 1km. Sét gạch ngói Kim Trung có nguồn gốc sông, phụ hệ tầng Thái Bình trên. Sét gạch ngói phân bố ven bờ sông Tiên Hưng về phía tây bắc - đông nam. Mỏ sét gạch ngói có chiều dài 6000-7000m, rộng 1000-3500m, dày 0,9-1,1m. Lớp đất khai thác sản xuất làm gạch ngói được lấy lên từ độ sâu 0,4-1,5m. Sét có chất lượng tốt. Hiện nay xí nghiệp gạch ngói Kim Trung và nhân dân đang khai thác sử dụng. Quy mô điểm quặng khá lớn. Xí nghiệp gạch ngói Kim Trung sản xuất với sản lượng 3,5-5 triệu viên gạch và 2 triệu viên ngói/năm.
Ngoài ra còn một số điểm sét gạch ngói ở Thái Bình có nguồn gốc trầm tích hỗn hợp sông biển, nguồn gốc sông ở huyện Kiến Xương, ven sông Hồng, sông Trà Lý, sông Kiến Giang.
Nước khoáng nóng
Nước khoáng nóng Tiền Hải: Thuộc xã Duyên Hải, huyện Hưng Hà. Năm 1994 tổ chức UNICEF khi khoan tìm nước sinh hoạt cho tỉnh Thái Bình đã phát hiện ra điểm nước khoáng nóng này. Nước khoáng nóng gặp ở độ sâu 64-65m (chưa khống chế hết độ sâu). Các lỗ khoan ở Hưng Hà đã gặp nước khoáng nóng trong trầm tích Đệ Tứ. Thứ tự địa tầng từ trên xuống gồm:
+ Hệ tầng Thái Bình: Bột sét, bột sét lẫn cát mịn màu xám nâu, xám vàng dày 6-8m.
+ Hệ tầng Hải Hưng: Bột sét, sét xám nâu, xám trắng phớt vàng, rải rác có các ổ, thấu kính sét xám trắng, hạt mịn, chất lượng tốt, ở phần dưới lẫn mùn thực vật màu xám đen. Dày 5-7m
+ Hệ tầng Vĩnh Phúc: Sét bột, bột sét lẫn cát màu xám nâu, xám vàng, loang lổ, cát sạn sỏi thành phần đa khoáng dày 15-17m.
+ Hệ tầng Hà Nội: Cát hạt mịn, hạt thô, cuộn sạn sỏi thành phần đa khoáng, rải rác có lẫn sét bột, màu xám nâu, xám vàng. Đây là tầng khoáng nóng. Tầng có chiều dày từ 10-63,5m.
Trong vùng có nước khoáng nóng phát triển hai hệ thống đứt gãy sâu liên quan đến nguồn nước khoáng nóng, hướng đứt gãy là á kinh tuyến và tây bắc- đông nam. Khu vực phân bố nước khoáng nóng có phương kéo dài tây bắc- đông nam, dài2250m, rộng120-1000m (trung bình là 600m). Tổ chức UNICEF khoan 17 lỗ khoan, có 10 lỗ khoan gặp nước khoáng này, 4 lỗ khoan có nước nóng nhất (nhiệt độ 42º-50ºC), các lỗ khoan còn lại nhiệt độ thấp hơn. Nước không màu, không mùi vị, độ PH 6,5-7,2 (trung bình 6,86). Lưu lượng nước đo được khi bơm hút trong lỗ khoan từ 0,25 - 0,61 lít/giây. Nước khoáng nóng có vị nhạt, là loại bicacbonatnatri hoặc bicacbonatnatri canxi.
Độ tổng khoáng hóa 0,47-0,5g/l. Nước có nguồn gốc liên quan với đứt gãy sâu đang hoạt động. Nước khoáng nóng Duyên Hải có chất lượng tương tự với nước khoáng nóng Tiền Hải. Đây là nguồn nước có triển vọng về quy mô, chất lượng nước, nước nằm ở độ sâu không lớn, do đó cần có đầu tư nghiên cứu chi tiết hơn để sớm khai thác nguồn nước quý giá này.
Nước khoáng nóng Tiền Hải: Thuộc xã Đông Cơ, huyện Tiền Hải. Năm 1975, Công ty Khai thác khí Thái Bình (nay là Xí nghiệp Dầu khí Thái Bình) đã tiến hành khoan lỗ khoan 61 tìm kiếm thăm dò dầu khí đến dộ sâu 2400m. Từ đáy lên gặp các vỉa T1 đến T13 chứa khí và nước khoáng nóng, trong đó có 4 vỉa chứa khí.
Sau khi kết thúc công tác khai thác khí, Xí nghiệp Dầu khí Thái Bình (XNDKTB) đã tiến hành lấp kín vỉa khí, bắn mìn mở vỉa khí nước khoáng. Nước khoáng được khai thác ở vỉa có độ sâu từ 421-397m(24m) chiếm 63% chiều dày vỉa. Nhiệt độ nước của vỉa có độ sâu 380m là 41ºC, nhiệt độ nước trên miệng giếng là 34º5. Vỉa nước khoáng là vỉa có áp, áp suất vỉa đo được ban đầu là 41,391atm. Nước khoáng là loại clorua bicacbinat kiềm, lưu lượng thấp, độ tổng khoáng hóa thấp 1,17g/l, độ PH 8,2.
Năm 1993-1996, nước khoáng chỉ khai thác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cho cán bộ, công nhân viên XNDKTB. Từ tháng 12-1996 đến nay, nước khoáng khai thác phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Tính từ 1996-2000, lượng nước đã khai thác phục vụ sinh hoạt, bán lẻ, chủ yếu là bán cho nhà máy nước khoáng vital, Công ty bia Việt Hà. Theo thiết kế ban đầu, giếng khoan 61 có thể cấp được 30m3/ngày đêm. Tổng sản lượng khai thác từ đầu năm 1993 đến năm 2000, ước tính 29 nghìn m3.
Nguồn:thaibinh.gov.vn Copy link